Visual Studio Code căn bản
Từ trước đến nay, khi nói đến sử dụng công nghệ Microsoft, ta không thể tránh khỏi Visual Studio. Nó gần như ôm trọn mọi thứ công nghệ của hãng này. Lập trình viên có thể dùng nó để làm tất tần tật từ desktop cho đến web rồi đến mobile. Điều này khiến Visual Studio ngày càng phình to. Theo xu thế hiện đại, công cụ viết code cần phải nhanh, gọn, nhẹ, vì lập trình viên không thích các công cụ đồ sộ. Hiểu được tâm lý này, vào tháng 4 năm 2015 tại hội thảo Build, Microsoft trình làng công cụ mới mang tên Visual Studio Code.
Đa nền tảng là xu hướng bắt buộc. Do cạnh tranh khốc liệt từ cộng đồng nguồn mở, Microsoft đã bắt đầu cởi trói cho đứa con cưng của mình, để chúng tự tung tự tác sang những nền tảng “đối lập”. Thay vì cứ bắt “hễ dùng công nghệ của tôi thì phải chạy hệ điều hành của tôi”, gã khổng lồ phần mềm cho phép các nền tảng khác tiếp cận dễ dàng với công nghệ của hãng, và Visual Studio Code là kết quả của tư duy mới này.
Thanh sidebar
Nhìn về phía bên trái, ta thấy 4 biểu tượng nằm dọc theo mép cửa sổ. Dựa vào biểu tượng, ta dễ dàng đoán ra chức năng của chúng.
Đầu tiên là biểu tượng hai tờ giấy xếp chồng lên nhau. Nếu đã có kinh nghiệm với Visual Studio (bản đồ sộ), ta chắc hẳn quá quen với cửa sổ Solution Explorer. Visual Studio Code cũng có một cửa sổ tương tự, nhưng được gọi là Explore. Khung cửa sổ này chia làm hai phần. Phần trên cùng là Working Files, chứa những file ta đang làm việc. Còn phần bên dưới là cây thư mục, chứa toàn bộ các file và folder có trong dự án. Khi rê chuột lên tiêu đề của từng phần, ta thấy một vài icon nhỏ xuất hiện bên phải. Nếu muốn biết các biểu tượng này làm gì, ta rê chuột lên nó thì sẽ có một tooltip thông báo chức năng. Ta cũng có thể truy cập các chức năng này bằng cách click phải.
Kế đến là biểu tượng kính lúp. Không cần phải nói nhiều, ta biết đây là công cụ tìm kiếm. Click vào nó, một khung cửa sổ tìm kiếm hiện ra. Tính năng này khá dễ hiểu nên tôi sẽ nhường cho bạn tự khám phá. Visual Studio Code còn có cách khác để tìm kiếm rất hiệu quả và độc đáo. Tôi sẽ trình bày ở phần sau của bài viết. Trước mắt, ta sẽ tìm hiểu tiếp biểu tượng thứ ba trong bộ tứ biểu tượng.
Version Control System (VCS) là công cụ không thể thiếu trong môi trường lập trình nhóm và Git là cái tên nổi bật nhất. Nếu dự án chưa được Git quản lí, Visual Studio Code hiển thị một cái nút to tướng đề nghị khởi tạo. Ta có thể dùng trực tiếp khung cửa sổ này để commit mà không cần nhảy qua cửa sổ dòng lệnh. Tất nhiên, Visual Studio Code không thể hỗ trợ mọi chức năng của Git. Nhưng với những gì nó cung cấp thì quá đủ cho nhu cầu Git hàng ngày.
Biểu tượng cuối cùng là con bọ nằm trong vòng tròn gạch chéo. Đây là chức năng tiêu diệt sâu bọ hay còn gọi là debugger. Thao tác cơ bản khi dùng debugger là như nhau. Đầu tiên ta đặt breakpoint, sau đó chạy chương trình cho tới khi đụng breakpoint. Kế đến, ta kiểm tra giá trị của biến, hoặc cho chạy từng dòng code để kiểm tra các thay đổi. Trong bài này, tôi không thể đi sâu vào quá trình debug. Bạn nên tìm hiểu thêm nếu kĩ năng debug vẫn còn non.
Thanh trạng thái
Nhìn xuống góc dưới bên trái, ta thấy hai biểu tượng với con số phía trước. Đây là mục cho ta biết số error và warning hiện có trong code. Thông thường, ta có thể lờ đi các warning, nhưng để code sạch sẽ, ta không nên chừa lại bất kỳ warning nào. Nếu thấy con số trước error hay warning lớn hơn 0, ta phải ngay lập tức tìm cách sửa nó. Khi click vào mục này, Visual Studio Code hiển thị thông tin về số dòng gây ra lỗi, từ đó, ta có thể nhảy ngay đến dòng có lỗi để sửa.
Tiếp theo, ta chuyển sang góc dưới bên phải. Mục đầu tiên là số dòng và số cột của con trỏ soạn thảo. Mục thứ hai là định dạng encoding, mặc định là UTF-8. Nếu muốn đổi nó, ta click vào và chọn encoding phù hợp. Hai mục này khá dễ hiểu nên tôi không giải thích gì thêm.
Thứ ba là mục kí tự kết thúc dòng. Trong Linux, kí tự kết thúc dòng là Line Feed (LF), còn trong Windows, kí tự này bao gồm Carriage Return và Line Feed (CRLF). Nếu để mặc định là LF, khi dùng Notepad mở file này, ta sẽ thấy văn bản trở nên lộn xộn vì Windows chỉ xuống dòng khi gặp CRLF.
Kế đến là mục ngôn ngữ lập trình. Visual Studio Code sẽ tự động phát hiện ngôn ngữ dựa vào đuôi file. Nếu nó chọn không đúng, ta dùng mục này để chỉnh lại.
Cuối cùng là biểu tượng mặt cười. Đây là nơi gửi phản hồi cho Microsoft để họ hoàn thiện sản phẩm. Nếu bạn có một ý tưởng hay, hãy gửi nó cho họ. Biết đâu trong bản Visual Studio Code tiếp theo, ý tưởng của bạn sẽ thành hiện thực.
Khung nhập lệnh
Khung nhập lệnh (Command Palette) là tính năng nổi tiếng của Sublime Text. Các trình soạn thảo code ra đời sau đều tích hợp tính năng này.
Giả sử tôi cần nhảy đến file có tên script.js
nằm đâu đó trong dự án. Tôi nhấn tổ hợp phím Ctrl + P, khung nhập lệnh hiện ra giữa màn hình. Lúc này, tôi nhập vào vài kí tự đầu tiên của tên file. Trong quá trình nhập, Visual Studio Code sẽ hiển thị kết quả gần đúng nhất với các kí tự đang nhập. Nếu thấy file cần mở nằm trong danh sách này, ta dùng mũi tên lên xuống để di chuyển vùng chọn đến nó rồi nhấn Enter. Bằng cách này, ta không phải rời tay khỏi bàn phím để dùng chuột click vào file trong cửa sổ Explore. Nhờ vậy, ta có thể di chuyển rất nhanh giữa các file.
Để chạy một lệnh nào đó cho Visual Studio Code, ta dùng tổ hợp phím Ctrl + Shift + P. Lúc này, một khung nhập lệnh tương tự ban nãy hiện ra. Tuy nhiên, ta thấy nó có một dấu >
phía trước. Nếu dùng Ctrl + P để mở khung nhập lệnh, sau đó gõ thêm dấu >
thì ta cũng nhận được kết quả tương tự. Tôi thích dùng Ctrl + Shift + P vì nó nhanh hơn.
Giả sử tôi muốn thay đổi theme cho Visual Studio Code. Thay vì phải mò trong đống menu để tìm ra mục theme, tôi chỉ cần bấm Ctrl + Shift + P, sau đó gõ từ khóa theme
. Visual Studio Code liệt kê các chức năng liên quan tới theme. Tôi dùng mũi tên lên xuống để chọn theme phù hợp và nhấn Enter.
Khi muốn di chuyển nhanh đến dòng cụ thể, tôi dùng Ctrl + G. Lúc này, khung nhập lệnh hiện ra và điền sẵn dấu :
bên trong. Tôi nhập số dòng và nhấn Enter để nhảy ngay đến dòng đó. Ngoài ra, khi muốn nhảy đến một class hay method, ta dùng Ctrl + Shift + O, sau đó nhập tên class hay method muốn đến. Các tên này được gọi là symbol và được biểu thị bằng kí tự @
phía trước.
Nếu nhìn kĩ, ta thấy bên trong khung nhập lệnh, Visual Studio Code gợi ý ta nhấn phím ?
để xem thông tin trợ giúp. Visual Studio Code sẽ liệt kê một loạt các kí tự đặc biệt và các lệnh có thể dùng trong khung nhập lệnh. Trong trường hợp lỡ quên phím tắt của các chức năng này, ta vào menu Goto và sẽ thấy ngay các phím tắt cần thiết.
Sử dụng phím tắt là kĩ năng không thể thiếu. Phím tắt giúp ta viết code nhanh hơn, tiết kiệm thời gian và công sức. Visual Studio Code cung cấp nhiều phím tắt, nhưng ta chỉ cần nhớ vài phím hữu dụng. Học phím tắt giống như học từ vựng tiếng Anh, ta không thể ghi nhớ bằng cách học thuộc lòng cả danh sách dài. Thay vào đó, ta nên dùng thường xuyên thì mới nhớ dai được.
Trình soạn thảo code
Khung soạn thảo của Visual Studio Code trông đơn giản nhưng lại chứa nhiều tuyệt chiêu bí mật bên trong. Chiêu nổi bật nhất là tính năng tách khung soạn thảo ra làm hai, thậm chí làm ba. Nếu ta viết code với màn hình kích thước lớn (hơn 21 inch), phần lớn code chỉ gom về phía trái màn hình, phía bên phải thì trống không. Visual Studio Code cho phép tách ra nhiều khung soạn thảo để tận dụng diện tích màn hình. Để mở thêm khung thứ hai, ta bấm Ctrl + 2. Lúc này, khung mới hiện ra bên phải khung hiện tại. Nếu vẫn còn chỗ trống, ta mở thêm khung thứ ba bằng tổ hợp phím Ctrl + \. Để đóng khung, ta dùng Ctrl + W.
Visual Studio Code cho mở tối đa 3 khung soạn thảo. Để di chuyển giữa các khung, ta dùng Ctrl và phím số tương ứng với thứ tự khung từ trái sang phải.
Emmet
Khi dùng Sublime Text, tôi phụ thuộc rất nhiều vào Emmet để viết code với ít phím gõ nhất. Mỗi khi cài mới Sublime Text, thao tác tiếp theo tôi làm là cài Emmet. Thật may, Visual Studio Code tích hợp Emmet từ đầu nên tôi không cần cài đặt thêm gì cả.
Khi tạo một file HTML mới, ta thường phải gõ đi gõ lại cái khung sườn của nó. Nào là thẻ <html>
, thẻ <head>
rồi thẻ <body
, sau đó thêm <title>
. Với Emmet, tôi chỉ cần gõ dấu !
rồi nhấn Tab. Ngay lập tức, cái sườn HTML hiện ra. Để tạo thẻ <link>
tham chiếu đến file CSS, tôi gõ link
rồi Tab. Emmet sẽ viết sẵn các thuộc tính cần thiết của thẻ <link>
và đặt con trỏ ngay tại href
để chờ tôi nhập đường dẫn. Rất nhanh chóng và tiện lợi.
Vì bài viết có hạn, tôi không thể trình bày hết tính năng của Emmet tại đây. Nếu đây là lần đầu tiên bạn dùng Emmet, hãy ghé trang tài liệu của nó để nghiên cứu thêm. Ngoài ra, nó cũng cung cấp một trang tóm tắt tính năng (cheat sheet) để tra cứu lệnh thường dùng.
Đa con trỏ
Với tính năng đa con trỏ, ta có thể nhập liệu ở nhiều vị trí cùng lúc. Khi click một từ, Visual Studio Code sẽ đánh dấu những từ tương tự có trong file. Nếu ta nhấn Ctrl + F2, trình soạn thảo sẽ bôi đen những từ này. Thao tác này rất hữu ích khi ta cần thay đổi tên của một biến hay method trong toàn bộ file mà không cần mở hộp thoại Find and Replace. Ta cũng có thể dùng Ctrl + D để chọn từ ở vị trí con trỏ soạn thảo. Nếu tiếp tục nhấn Ctrl + D, các từ tương tự bên dưới cũng sẽ lần lượt được bôi đen.
Ngoài ra, ta có thể chọn vị trí đặt các con trỏ soạn thảo bằng cách giữ phím Alt và click vào vị trí mong muốn. Hơn nữa, ta có thể dùng Ctrl + Alt + Mũi tên lên xuống để tạo thêm con trỏ soạn thảo ở dòng trên hoặc dưới dòng hiện tại. Tính năng này rất hữu ích khi có những từ khóa nằm cùng vị trí cột trên nhiều dòng liên tục.
Intellisense
Tôi không thể sống nếu thiếu Intellisense. Thật kinh khủng nếu một ngày đẹp trời nào đó, tôi mở Visual Studio Code và không thấy cái Intellisense đâu. Hầu như code editor nào cũng có tính năng nhắc mã, nhưng tôi đảm bảo nó không chuyên nghiệp bằng Visual Studio Code.
Khi viết code, Intellisense sẽ liên tục xuất hiện để gợi ý. Trong trường hợp ta cần được gợi ý mà lại không thấy Intellisense, ta gọi nó bằng Ctrl + Space (thanh khoảng trắng). Intellisense không những cung cấp tên biến hay method, mà nó còn thêm một dòng mô tả chức năng ngay bên dưới.
Các ngôn ngữ phổ biến đều được Intellisense hỗ trợ. Nếu dùng ngôn ngữ lạ, bạn có thể tải về extension bổ sung. Đầu tiên, ta mở khung nhập lệnh (Ctrl + Shift + P), rồi nhập vào ext install
. Chờ một chút để Visual Studio Code lấy danh sách extension từ server. Sau đó, ta chọn extension muốn cài trong danh sách. Giả sử tôi muốn cài extension C++ Intellisense để Visual Studio Code nhắc mã khi viết code C++. Tôi mở khung nhập lệnh, gõ vào ext install c++
. Nằm ngay đầu danh sách là C++ Intellisense
. Tôi chọn nó và nhấn Enter. Từ giờ, Intellisense sẽ cung cấp gợi ý cho tôi khi viết code C++.
Code Snippet
Code snippet là đoạn code nhỏ thường được dùng ở nhiều chỗ khác nhau. Các snippet đều có một cái tên, và khi gõ cái tên này rồi nhấn Tab, toàn bộ đoạn code sẽ được chèn vào vị trí. Mặc định, Visual Studio Code cung cấp snippet cho các tính năng thường dùng trong ngôn ngữ. Ngoài ra, ta cũng có thể tạo snippet của riêng mình để dùng sau này.
Giả sử tôi đang viết JavaScript và cần dùng vòng lặp for
. Lúc này, tôi gõ for
và Intellisense hiện ra nhắc tôi là có một snippet tên for. Tôi chọn nó rồi nhấn Enter. Visual Studio Code chèn toàn bộ khung sườn của vòng lặp for và bôi đen những vị trí các biến để tôi thay thế cho dễ. Tôi di chuyển qua lại giữa các vị trí bôi đen này bằng phím Tab, và sau khi chỉnh sửa xong, tôi nhấn Enter để con trỏ soạn thảo nhảy ngay vào phần thân của vòng lặp. Hết sức nhanh chóng và tiện lợi.
Có những đoạn code tuy không khó nhưng do ít dùng nên ta thường hay quên. Do vậy, cách hiệu quả nhất là lưu chúng thành các snippet. Để làm việc này, đầu tiên ta vào File > Preferences > User Snippets, sau đó khung nhập lệnh hiện ra yêu cầu chọn ngôn ngữ. Visual Studio Code lưu snippet cho mỗi ngôn ngữ trong một file riêng biệt dưới dạng JSON. Sau khi chọn ngôn ngữ, file JSON tương ứng sẽ được mở ra. Trong này, Visual Studio Code hướng dẫn cách thêm snippet bằng một ví dụ trong phần ghi chú. Ta chỉ cần bắt chước cấu trúc trong ví dụ mẫu để thêm snippet mới.
Di chuyển trong code
Khi viết những ứng dụng lớn, di chuyển qua lại trong code trở nên phức tạp. Trong Visual Studio, ta được trang bị hai tính năng Go to Definition và Peek Definition để nhảy ngay đến phần định nghĩa của một class hay method. Vì sự hữu ích không thể chối cãi, hai tính năng tuyệt vời này được mang sang Visual Studio Code.
Go to Definition là tính năng lâu đời. Để dùng tính năng này, ta click phải chuột vào tên class hoặc method, sau đó chọn Go to Definition, hoặc dùng phím F12 cho nhanh. Cửa sổ code sẽ nhảy sang phần định nghĩa. Để quay lại vị trí cũ, ta nhấn Alt + Mũi tên trái.
Tính năng Peek Definition được bổ sung vào bản Visual Studio 2013 và giờ được tích hợp vào Visual Studio Code. Đây là tính năng tương tự Go to Definition nhưng cửa sổ code không nhảy sang vị trí khác. Thay vào đó, một cửa sổ con sẽ được mở ra ngay bên dưới. Ta có thể truy cập tính năng này bằng menu ngữ cảnh hoặc bằng Alt + F12. Ngoài ra, ta cũng có thể tìm tất cả các tham chiếu đến class hay method bằng tính năng Find All References với tổ hợp Shift + F12. Lúc này, Visual Studio Code hiển thị khung cửa sổ con như tính năng Peek Definition nhưng ở cột bên phải còn có thêm danh sách các tham chiếu.
Ngoài ra, Visual Studo Code có một cách để xem nhanh định nghĩa bằng cách giữ phím Ctrl rồi rê chuột lên tên class hay method. Tôi hay dùng tính năng này để xem nhanh code trước khi quyết định có nhảy đến phần định nghĩa hay không.
Một tính năng hữu ích khác đó là di chuyển ngay đến chỗ code có lỗi. Khi lỗi xảy ra, thanh trạng thái sẽ hiển thị số lỗi ở góc dưới bên trái màn hình. Click vào biểu tượng này sẽ mở ra khung nhập lệnh với dấu !
. Bên canh đó, ta có thể nhảy ngay đến lỗi đầu tiên bằng phím F8. Lúc này, Visual Studio Code sẽ hiển thị thông tin ngay tại dòng có lỗi. Nếu nhấn F8 lần nữa, ta sẽ được đưa đến vị trí có lỗi tiếp theo, và cứ như thế cho đến khi lặp qua hết các lỗi.
Cấu hình
Visual Studio Code cung cấp một loạt các theme cho ta tha hồ lựa chọn, và ta cũng có thể cài thêm theme nếu muốn. Nhìn chung, theme được phân ra làm hai mảng sáng (light) và tối (dark). Để đổi theme, ta vào File > Preferences > Color Theme, rồi chọn theme phù hợp.
Ngoài theme, Visual Studio Code cung cấp nhiều tùy chọn khác để ta cấu hình nó theo ý mình. Tương tự Sublime Text, file cấu hình chỉ là một file JSON và ta truy cập nó bằng cách vào File > Preferences > User Settings. Lúc này, trình soạn thảo code chia làm hai nửa, nửa trái chứa các cấu hình mặc định để ta tham khảo, nửa phải là một file trắng tên là settings.json
. Để thông số cấu hình không bị ghi đè khi update Visual Studio Code, ta sẽ ghi thông tin ở nửa bên phải. Đầu tiên, ta tìm cấu hình cần thay đổi ở nửa trái. Sau đó ta copy chúng và dán vào nửa phải. Cuối cùng, ta thay đổi thông số cho phù hợp. Sau khi lưu lại file này, mọi thay đổi sẽ có hiệu lực ngay lập tức.
Khi chỉnh sửa cấu hình trong User Settings, ta áp dụng những thay đổi này cho tất cả dự án. Visual Studio Code còn cho phép ta cấu hình theo từng dự án khác nhau. Ví dụ tôi muốn khi mở dự án A thì code editor sẽ có kích cỡ font là 16, còn khi mở dự án B thì kích cỡ là 18. Để làm việc này, ta vào File > Preferences > Workspace Settings. Lúc này, trình soạn thảo code cũng chia làm hai nửa tương tự như cấu hình User Settings. Tuy nhiên, khi nhìn vào cây thư mục trong cửa sổ Explore, ta thấy Visual Studio Code đã tạo thêm một thư mục mới tên .settings
và bên trong chứa file settings.json
. Đây chính là nơi lưu cấu hình cho từng dự án. Theo quy tắc, cấu hình của dự án sẽ được ưu tiên hơn cấu hình của hệ thống. Nếu bạn muốn chia sẻ thông số cấu hình kèm theo dự án cho người khác, Workspace Settings là cách để thực hiện điều này.
Ngoài ra, ta cũng có thể cấu hình phím tắt. Để làm việc này, ta vào File > Preferences > Keyboard Shortcuts. Trình soạn thảo code chia làm hai nửa. Phía bên trái là những phím tắt mặc định. Để thay đổi, ta copy và dán vào nửa phải rồi thay đổi theo ý muốn. Khác với User hay Workspace Settings, file cấu hình phím tắt sử dụng một mảng các đối tượng, và mỗi đối tượng chứa hai thuộc tính bắt buộc là key
và command
cùng với một thuộc tính không bắt buộc là when
. Thuộc tính key
quy định các phím tắt. Thuộc tính command
chỉ định lệnh sẽ chạy khi bấm phím tắt này. Còn thuộc tính when
chỉ ra phạm vị hiệu lực của phím tắt.
Quản lý code với Git
Git là thành phần không thể thiếu khi viết ứng dụng lớn, hoặc khi làm việc nhóm. Mọi thay đổi trong code cần được lưu lại, kể cả thông tin về người thực hiện thay đổi này. Khi có lỗi xảy ra, ta có thể quay về trạng thái cũ của code. Để dùng Git trong Visual Studio Code, ta phải cài Git sẵn trong máy.
Cửa sổ Git chia làm hai phần: Staged Changes và Changes. Changes chứa file bị thay đổi kể từ lần commit cuối cùng. Còn Staged Changes chứa file sẽ được commit trong lần tiếp theo. Khi rê chuột lên tên file, ta thấy phía bên phải xuất hiện biểu tượng. Để biết tính năng của chúng, ta rê chuột lên trên và chờ tooltip xuất hiện. Để commit các file trong Staged Changes, ta ghi thông tin vào khung Message, sau đó nhấn Ctrl + Enter. Phía trên khung Message là một loạt các biểu tượng khác. Trong đó, dấu ba chấm cung cấp một menu gồm khá nhiều tính năng của Git. Nếu chưa quen, bạn có thể tham khảo bài viết của tôi hướng dẫn sử dụng tính năng cơ bản của Git.
Để ý kĩ, ta thấy phía trước tên file trong cửa sổ Git có một kí tự nhỏ. Đây là kí hiệu thông báo trạng thái của file. Bên dưới là danh sách các kí tự này:
- U (Untracked): file chưa được theo dõi.
- A (Added): file được thêm vào index để theo dõi.
- M (Modified): file đã được thay đổi.
- D (Deleted): file đã bị xóa.
Khi click lên file có kí hiệu M (Modified) trong cửa sổ Git, trình soạn thảo hiển thị những thay đổi trong file kể từ lần commit cuối cùng. Những thay đổi này được đánh dấu bằng hai màu xanh và đỏ. Màu xanh nghĩa là thêm mới, còn màu đỏ nghĩa là bị xóa. Mặc định, Visual Studio Code sẽ hiển thị dưới dạng Side by Side View. Để thay đổi cách hiển thị sang Inline View, ta chọn mục Switch to Inline View nằm trong menu dấu ba chấm phía trên khung soạn thảo.
Debug
Mắc lỗi và sửa lỗi đã trở thành một phần của cuộc đời lập trình viên. Dù muốn hay không, lỗi vẫn luôn hiện diện ở những nơi ta ít ngờ nhất. Và để tìm chúng thì không phải dễ. Do đó, ta cần có một công cụ mạnh giúp săn lùng những con sâu bọ này. Visual Studio Code cung cấp một trình debug tuy không quá cao siêu như trong Visual Studio nhưng cũng đủ thỏa mãn nhu cầu debug căn bản.
Cửa sổ debug chứa những thành phần căn bản ta thường thấy trong bất kì debugger:
- Khung Variables chứa thông tin về các biến.
- Khung Watch để thêm các biến cần theo dõi.
- Khung Call Stack là danh sách các hàm được gọi theo thứ tự thời gian ngược, nghĩa là hàm gọi sau sẽ nằm đầu danh sách.
- Khung Breakpoints chứa các tùy chọn cho breakpoint trong quá trình debug.
Hiện tại, Visual Studio Code chỉ hỗ trợ debug file JavaScript hoặc TypeScript. Trước khi debug, ta phải cấu hình nó bằng cách click vào biểu tượng bánh răng để tạo file launch.json
. Lúc này, Visual Studio Code hiện ra khung nhập lệnh để hỏi ta muốn debug trong môi trường nào. Ta có nhiều lựa chọn, nhưng đơn giản nhất là dùng Node.js. Cũng như các file cấu hình khác trong Visual Studio Code, file này cũng theo định dạng JSON. Debug chia làm 2 chế độ: Launch và Attach. Launch nghĩa là ta chạy debugger trực tiếp trên file, còn Attach nghĩa là ta sẽ gắn debugger vào một tiến trình khác đang chạy, cụ thể ở đây là Node.js. Ta thay đổi giữa 2 chế độ này bằng danh sách kế bên nút Start. Cũng trong file cấu hình, tôi thay đổi đường dẫn đến file cần debug ở thuộc tính program
. Cấu hình đã xong, giờ ta có thể bắt đầu debug.
Để debug, ta vào trong file cần kiểm tra và click vào đầu dòng để đặt breakpoint. Một chấm đỏ xuất hiện đánh dấu chỗ dừng khi code chạy tới đó. Tiếp theo, ta chọn chế độ Launch và nhấn nút Start. Debugger chạy code và dừng ngay tại breakpoint. Các thông tin ở khung bên trái cũng được cập nhật. Phía trên, ta thấy 5 nút điều khiển: Continue, Step Over, Step Into, Step Out, Restart, và Stop. Tôi nghĩ là bạn đã biết chức năng của các nút này rồi nên tôi không phải nói nhiều về chúng. Như tôi đã đề cập ở phần giới thiệu biểu tượng trên sidebar, bạn nên tìm hiểu thêm về debug nếu chưa rành.
Để debug TypeScript, ta phải có file source map. Tôi sẽ hướng dẫn tạo file này ở phần tiếp theo: Chạy task tự động.
Chạy task tự động
Trong quy trình viết code JavaScript hiện đại, ta không còn phải thực hiện những thao tác thủ công nhàm chán. Visual Studio Code hỗ trợ tận răng những tính năng tự động hóa này, và cho phép chạy task thông qua các task runner nổi tiếng như Gulp, Grunt. Nếu viết code bằng TypeScript hoặc ECMAScript 6, ta có thể transpile nó sang JavaScript tự động bằng phím tắt hoặc mỗi khi save.
Chuẩn bị
Các task runner phổ biến hiện này đều chạy trong môi trường Node.js. Do đó, bạn phải cài Node.js bản mới nhất tại nodejs.org nếu máy chưa có. Sau đó, ta tạo file package.json
để lưu cấu hình cho dự án. Ta có thể tạo file này bằng cách thủ công, tuy nhiên, cách nhanh hơn là để npm tạo giúp. Ta vào cửa sổ dòng lệnh, sau đó di chuyển vào trong thư mục dự án. Tiếp theo, ta gõ lệnh npm init
. Lúc này, npm sẽ hỏi ta một vài câu hỏi về thông tin dự án. Bạn có thể bỏ qua những câu hỏi không muốn trả lời bằng phím Enter. Sau khi hoàn tất, một file package.json
được tạo ra trong thư mục dự án.
Cấu hình task
Để sử dụng task, ta cần có một file cấu hình tasks.json
. Để tạo file này trong Visual Studio Code, ta mở khung nhập lệnh (Ctrl + Shift + P), và gõ từ khóa task
. Một danh sách các lệnh có liên quan đến task hiện ra. Ở đây, ta chọn mục Configure Task Runner. Visual Studio Code sẽ tạo thư mục .vscode
và trong đó chứa tasks.json
. Bên trong file là các ghi chú hướng dẫn cấu hình những task runner thông dụng. Muốn sử dụng task runner nào thì ta bỏ ghi chú phần đó. Để cho đỡ rối, tôi xóa toàn bộ nội dung file này và gõ lại bằng tay các thông số cấu hình.
Biên dịch ECMAScript 6 tự động với Babel
Trước tiên, ta phải cài Babel cho dự án bằng npm. Ta chạy hai dòng lệnh sau:
Tiếp theo, ta mở file tasks.json
và nhập vào thông tin sau:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
{
"version": "0.1.0",
"command": "${workspaceRoot}/node_modules/.bin/babel",
"isShellCommand": true,
"tasks": [
{
"taskName": "babel",
"isBuildCommand": true,
"suppressTaskName": true,
"args": [
"js", // Thư mục chứa file ECMAScript 6
"--out-dir",
"out", // Thư mục chứa file sau khi biên dịch
"--source-maps", // Tạo source map
"--presets",
"es2015" // Dùng preset tên es2015 để biên dịch
]
}
]
}
Thuộc tính command
chỉ ra đường dẫn để chạy lệnh. Vì ta cài Babel bằng npm, nên nó sẽ nằm trong thư mục node_modules
. Ngoài ra, ${workspaceRoot}
là biến chứa đường dẫn đến thư mục dự án. Tại thuộc tính taskName
, ta đặt tên cho task tùy ý. Đặc biệt, ta phải chuyển suppressTaskName
sang true
để Visual Studio Code không tự ý chèn tên task vào dòng lệnh. Thuộc tính isBuildCommand
để thông báo đây là task dùng để build. Khi cần chạy task này, ta nhấn tổ hợp phím Ctrl + Shift + B để tiến hành biên dịch ECMAScript 6. Cuối cùng, thuộc tính args
chứa các thông số cho dòng lệnh. Tôi đã chú thích ngay trong code chức năng của từng thông số. Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm các thông số khác tại trang documentation của Babel.
Để chạy thử task, ta viết một vài dòng ECMAScript 6 vào một file nào đó trong thư mục js
. Sau đó, ta nhấn Ctrl + Shift + B để chạy task. Cửa sổ Output sẽ hiện ra thông báo biên dịch thành công. Lúc này, trong thư mục dự án xuất hiện một thư mục mới tên out
và bên trong chứa các file JavaScript đã được chuyển từ ECMAScript 6.
Nếu bạn không biết viết ECMAScript 6, hãy dùng tạm đoạn code sau để thử nghiệm:
1
2
3
4
5
6
class Student {
constructor(name, age) {
this.name = name;
this.age = age;
}
}
Tuy nhiên, mỗi lần thay đổi code ta phải bấm Ctrl + Shift + B để chạy task thì quá bất tiện. Do vậy, ta có thể chạy task ở chế độ watch, và khi có thay đổi xảy ra trong file, nó sẽ tự động biên dịch. Để làm việc này, ta thêm đoạn code cấu hình sau vào mảng tasks
trong file tasks.json
.
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
...
"tasks": [
...
{
"taskName": "babel-watch",
"isBuildCommand": false,
"suppressTaskName": true,
"args": [
"js",
"--out-dir",
"dist",
"-w", // Bật chế độ watch
"--source-maps",
"--presets",
"es2015"
]
}
]
Để chạy task này, ta không thể dùng Ctrl + Shift + B, vì nó không phải là build command (isBuildCommand
là false
). Do đó, ta phải mở khung nhập lệnh Ctrl + P, sau đó gõ task
rồi gõ khoảng trắng. Danh sách hiện ra các task có trong file tasks.json
. Ta chọn babel-watch
rồi nhấn Enter.
Lúc này, ở thanh trạng thái, ta thấy một biểu tượng xoay. Biểu tượng này cho biết rằng có một task vẫn đang chạy. Bây giờ, ta thay đổi code của file bất kì trong thư mục js
, sau đó nhấn Ctrl + S để save. Ngay lập tức, Visual Studio Code sẽ cho biên dịch file này. Để tắt một task đang chạy, ta mở khung nhập lệnh, rồi gõ Terminate Running Task, sau đó nhấn Enter.
Thao tác cấu hình tôi trình bày trong phần này không chỉ dành cho Babel, mà còn dành cho tất cả các ứng dụng khác chạy trong môi trường dòng lệnh. Điển hình là trình biên dịch TypeScript tôi trình bày trong phần tiếp theo.
Biên dịch TypeScript tự động
Để biên dịch TypeScript, trước tiên ta phải cài đặt package TypeScript bằng npm:
Tiếp theo, ta mở tasks.json
lên và thêm vào nội dung sau:
1
2
3
4
5
6
{
"version": "0.1.0",
"command": "tsc",
"isShellCommand": true,
"args": ["-p", "."] // Thêm -w để bật chế độ watch
}
Ở thuộc tính args
, tôi dùng thông số -p
để chỉ định thư mục dự án (dấu chấm nghĩa là thư mục hiện tại). Tiếp theo, ta tạo thêm một file tên là tsconfig.json
nằm ở thư mục dự án để cấu hình trình biên dịch TypeScript. File này có nội dung như sau:
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
{
"compilerOptions": {
"target": "es5", // Biên dịch TypeScript sang ECMAScript 5
"module": "commonjs",
"declaration": false,
"noImplicitAny": false,
"removeComments": true,
"noLib": false,
"sourceMap": true // Tạo source map để debug
}
}
Tùy chọn cấu hình TypeScript có rất nhiều nên tôi không thể trình bày hết ở đây. Bạn có thể tham khảo thêm trong documentation của TypeScript.
Bây giờ, ta có thể chạy task bằng Ctrl + Shift + B. Visual Studio Code sẽ biên dịch tất cả các file .ts
trong thư mục dự án và tạo ra file .js
tương ứng. Vì ta đã bật thuộc tính sourceMap
sang true
nên trình biên dịch TypeScript cũng sẽ tạo ra các file source map tương ứng. Các file này dùng để debug TypeScript như đã trình bày ở phần Debug. Nếu bạn không biết gì về TypeScript, hãy tham khảo bài viết TypeScript căn bản của tôi.
Lời kết
Visual Studio Code là sự phối hợp hoàn hảo giữa code editor và IDE. Tuy không có nhiều tính năng cao cấp nhưng Visual Studio Code đáp ứng được phần lớn nhu cầu viết code của lập trình viên. Xu hướng viết code hiện nay là tránh dùng những công cụ cồng kềnh mà sử dụng một loạt các công cụ đơn giản kết hợp với nhau. Điều này cho phép họ tùy chỉnh quy trình viết code của mình sao cho phù hợp với sở thích cá nhân, thay vì phải gò ép bản thân cho khít với cách thức hoạt động của IDE.
Nếu đang dùng IDE hoặc code editor khác, bạn hãy tải Visual Studio Code và thử nghiệm trong một thời gian ngắn. Biết đâu sau vài ngày, bạn quyết định đi theo Visual Studio Code. Tại thời điểm viết bài này, nó vẫn đang trong giai đoạn “public preview”. Trong tương lai, Microsoft sẽ bổ sung thêm nhiều cải tiến hấp dẫn.
P.S. Trong phiên bản trước, Visual Studio Code không hỗ trợ gõ tiếng Việt có dấu bằng Unikey. Tuy nhiên, trong quá trình viết bài này, Microsoft đã tung ra bản update tháng 2 năm 2016 (nhằm ngày mùng 3 Tết), và bản này đã hỗ trợ gõ tiếng Việt bằng Unikey. Vậy là từ giờ tôi có thể dùng Visual Studio Code để viết bài thay vì Sublime Text.